Văn Học VN
Menu
15+ Mẫu phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến hay nhất - vanhocvn.net

15+ Mẫu phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến hay nhất

22nd Nov, 2024

Nhắc đến thơ mùa thu Việt Nam, Nguyễn Khuyến nổi bật như một tượng đài với chùm thơ thu đặc sắc. Trong đó, Thu vịnh tỏa sáng qua vẻ đẹp trong trẻo, sâu lắng, phản ánh tâm hồn thanh cao của thi nhân. Dưới đây là những bài phân tích chọn lọc về tác phẩm, mời bạn đọc cùng tham khảo.

Phân tích bài thơ Thu vịnh văn mẫu

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ đặc sắc nhất của văn học Việt Nam, đặc biệt với những bài thơ viết về làng cảnh quê hương. Nếu trước ông, nhiều nhà thơ đã chạm đến vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, thì Nguyễn Khuyến chính là người để lại dấu ấn đậm nét nhất. Qua thơ ông, cảnh sắc thiên nhiên miền quê Bắc Bộ hiện lên với tất cả sự thanh bình, tĩnh lặng và nên thơ. Những đêm trăng huyền ảo, những ngôi chùa cổ kính, những dòng sông lặng lẽ, những mái nhà thấp thoáng sau rặng tre, những ngõ trúc quanh co hay những buổi trưa hè yên ả – tất cả đều được Nguyễn Khuyến khắc họa bằng tài hoa của một người yêu quê hương tha thiết. Đặc biệt, trong số đó, ba bài thơ mùa thu nổi tiếng: “Thu vịnh,” “Thu điếu,”“Thu ẩm” đã làm nên một “thương hiệu” riêng của nhà thơ. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.”

Đọc ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, người ta không chỉ cảm nhận được bức tranh mùa thu đẹp đẽ, thân thuộc của làng quê Việt Nam mà còn thấy được tâm hồn nhạy cảm, chan chứa yêu thương và những nỗi niềm sâu lắng của nhà thơ. “Thu vịnh” là bài thơ vịnh cảnh thu, “Thu điếu” là cảnh câu cá mùa thu, còn “Thu ẩm” là hình ảnh mùa thu qua lăng kính của thú vui uống rượu. Ba bài thơ, ba cách nhìn, ba cảm xúc khác nhau, nhưng tất cả đều thấm đẫm vẻ đẹp thanh cao và sâu sắc.

Trong đó, “Thu vịnh” được Xuân Diệu đánh giá là bài thơ thể hiện rõ nhất “cái hồn, cái thần của mùa thu” với “cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao.” Và điều đó được thể hiện ngay từ câu thơ mở đầu:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”

Câu thơ đầu tiên đã phác họa một bầu trời thu trong sáng, cao vợi, gợi lên cảm giác về một không gian bao la, thanh bình. Từ “xanh ngắt” không chỉ miêu tả màu sắc mà còn gợi lên chiều sâu, sự mênh mông của bầu trời. Ở đó, mùa thu không chỉ là khung cảnh, mà còn là tâm hồn, là sự đồng điệu giữa con người với thiên nhiên. Một bầu trời trong trẻo như thế chỉ có thể thuộc về tâm hồn thanh cao, tĩnh tại của Nguyễn Khuyến, người đã từ bỏ chốn quan trường để tìm về sự an nhiên giữa quê nhà.

Sau khi khắc họa bầu trời, Nguyễn Khuyến chuyển sang miêu tả cảnh vật gần gũi hơn:

“Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”

Câu thơ giàu tính tạo hình, gợi lên hình ảnh những cành trúc nhỏ, mềm mại, lay động nhẹ nhàng trước làn gió thu hiu hắt. Sự đối sánh giữa “trời thu xanh ngắt”“cần trúc lơ phơ” đã tạo nên một không gian hài hòa, trong đó, cảnh vật như soi bóng lẫn nhau. Cần trúc uốn cong làm điểm nhấn cho bầu trời xanh, trong khi bầu trời làm nền cho những nét trúc mềm mại. Sự kết hợp ấy, qua đôi mắt của Nguyễn Khuyến, trở nên đầy sống động và trữ tình.

Tiếp nối, cảnh thu lại mở rộng qua mặt nước ao thu và những bóng trăng nhè nhẹ:

“Nước biếc trông như từng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”

Làn nước mùa thu tĩnh lặng, trong suốt đến mức gợi cảm giác như khói phủ mơ màng. Không gian thêm phần huyền ảo khi bóng trăng lấp ló qua những song cửa. Chi tiết này cho thấy sự nhạy cảm tinh tế của nhà thơ trước thiên nhiên. Một số ý kiến cho rằng chi tiết “bóng trăng” làm bước chuyển thời gian đột ngột, nhưng thực ra Nguyễn Khuyến không tả một thời điểm cụ thể mà là sự tổng hợp những khoảnh khắc đẹp nhất của mùa thu.

Điểm đáng chú ý ở đây là cách ông chọn “để mặc bóng trăng vào.” Đó không phải là thái độ hờ hững, mà là sự mở lòng đón nhận thiên nhiên như một người bạn tri kỷ. Với Nguyễn Khuyến, thiên nhiên không chỉ là đối tượng miêu tả, mà còn là nơi ông ký thác tâm hồn, tìm kiếm sự thanh thản trong những tháng ngày ở ẩn.

Hai câu luận của bài thơ tiếp tục khai thác chiều sâu cảm xúc:

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”

Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự bền vững của thiên nhiên trước dòng chảy của thời gian, đối lập với sự biến động, đổi thay của cuộc đời. Câu hỏi về tiếng ngỗng trên bầu trời cũng mang theo nỗi bâng khuâng, lẻ loi, như tâm trạng của nhà thơ trước thời thế loạn lạc. Tiếng ngỗng không chỉ phá tan sự tĩnh lặng của không gian mà còn gợi lên những phương trời xa xôi, làm dậy lên nỗi nhớ quê hương, nỗi niềm trăn trở về đất nước.

Hai câu kết như một lời tự vấn, một sự soi mình vào nhân cách của người xưa:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”

Đào Tiềm, biểu tượng của khí tiết thanh cao trong văn học cổ, trở thành tấm gương để Nguyễn Khuyến soi chiếu bản thân. Dẫu đã rời xa quan trường để giữ mình trong sạch, nhà thơ vẫn thấy mình chưa thể sánh ngang với người xưa. Nỗi thẹn ấy không chỉ thể hiện sự tự ý thức sâu sắc mà còn cho thấy nỗi đau thời cuộc, nỗi bất lực trước vận mệnh đất nước đang bị giày xéo bởi thực dân.

“Thu vịnh” không chỉ là một bài thơ tả cảnh mùa thu mà còn là bức tranh tâm hồn của một thi nhân, một trí thức thanh cao. Qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, lòng trăn trở với đất nước và khát vọng gìn giữ nhân cách trước thời thế đổi thay. Với Nguyễn Khuyến, cảnh thu không chỉ đẹp mà còn là nơi tâm hồn ông hòa vào sự trong trẻo, thanh cao của quê hương. Tác phẩm là minh chứng rõ nét cho tài năng và nhân cách lớn của một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.

Phân tích bài thơ Thu vịnh siêu hay

"Thu vịnh" là một trong những bài thơ nổi bật của Nguyễn Khuyến, nằm trong chùm thơ thu gồm “Thu vịnh,” “Thu điếu,” và “Thu ẩm” – ba tác phẩm được ví như những tuyệt bút viết về mùa thu làng quê Việt Nam. Với hình ảnh mộc mạc, gần gũi của làng quê qua bầu trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng, và những âm thanh thân thuộc như tiếng gió, tiếng ngỗng, bài thơ mang đến một bức tranh thiên nhiên giàu sức sống nhưng ẩn chứa nỗi lòng sâu lắng. Qua đó, Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa cảnh thu đẹp đẽ mà còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và tâm trạng trầm lặng, u hoài của người thi nhân.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã phác họa một bầu trời thu trong trẻo, cao vút – đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ:

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”

Không gian mùa thu được mở ra bằng sắc xanh đặc trưng, “xanh ngắt,” không pha lẫn bụi mờ, gợi lên sự trong trẻo và sâu lắng. Hình ảnh “cần trúc lơ phơ” với những lá trúc thưa thớt, khẽ lay động trong làn gió nhẹ “hắt hiu” mang đến cảm giác nhẹ nhàng mà man mác buồn. Từ láy “lơ phơ”“hắt hiu” không chỉ gợi hình ảnh mà còn gợi cảm xúc, khiến người đọc cảm nhận được sự mong manh của cảnh vật và một nỗi niềm mơ hồ trong lòng người thi sĩ. Ở đây, thiên nhiên không chỉ là bức tranh mà còn là tiếng lòng của con người trước đất trời mùa thu.

Tiếp đó, bức tranh mùa thu dần được hoàn thiện với sự kết hợp giữa màu sắc và ánh sáng:

“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.”

Hình ảnh “nước biếc” trong xanh hòa quyện cùng lớp “khói phủ” mờ ảo tạo nên một không gian huyền diệu, mộng mơ. Cảnh vật vừa cụ thể, vừa phiêu lãng như đi vào cõi tâm hồn. Ánh trăng len lỏi qua “song thưa”, nhẹ nhàng chiếu vào không gian, làm bức tranh thu thêm phần thơ mộng. Trăng, trong thơ Nguyễn Khuyến, không chỉ là vẻ đẹp của tự nhiên mà còn là người bạn tri kỷ, là biểu tượng của sự trong sáng và thanh cao.

Nếu phần đầu bài thơ tập trung khắc họa vẻ đẹp hữu hình của mùa thu thì ở phần sau, Nguyễn Khuyến đưa người đọc lắng nghe âm thanh của mùa thu – những âm thanh làm nền cho nỗi lòng thầm kín:

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”

Hình ảnh “hoa năm ngoái” gợi lên sự trôi chảy của thời gian, còn tiếng “ngỗng nước nào” giữa không trung lại khơi dậy nỗi buồn man mác. Tiếng ngỗng trời xa lạ như vọng lại từ một miền ký ức, như lời nhắc nhở về những điều đã qua. Ở đây, âm thanh không chỉ là hiện thực mà còn là nhịp đập của thời gian, là cảm xúc dội về trong lòng người.

Nguyễn Khuyến đã khéo léo dùng sự tinh tế của âm thanh và hình ảnh để tạo nên một không gian vừa tĩnh lặng, vừa chất chứa tâm sự. Cái tĩnh của cảnh thu hòa quyện cùng cái động của tiếng ngỗng trời như đối lập nhưng lại hài hòa, làm nổi bật nỗi lòng cô đơn, hoài niệm của tác giả.

Khép lại bài thơ, Nguyễn Khuyến bộc lộ trực tiếp nỗi niềm của mình trước vẻ đẹp mùa thu và nhân cách của bậc tiền nhân:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”

Trước cảnh thu đẹp đẽ, Nguyễn Khuyến định cất bút làm thơ nhưng lại cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào được nhắc đến ở đây là Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, người đã từ quan về quê sống ẩn dật để giữ gìn khí tiết. Nguyễn Khuyến, làm quan dưới triều đình thực dân phong kiến, khi nhìn lại mình, không khỏi cảm thấy thẹn thùng, ân hận vì những năm tháng sống trong bộ máy chính quyền thối nát. Lời thơ vừa là sự bộc bạch chân thành, vừa là tiếng nói của một nhân cách lớn luôn ý thức về đạo đức và lẽ sống.

“Thu vịnh” không chỉ là một bài thơ miêu tả mùa thu mà còn là sự kết hợp hoàn hảo giữa bức tranh thiên nhiên và tâm hồn người thi sĩ. Qua bài thơ, Nguyễn Khuyến khéo léo gửi gắm tình yêu quê hương đất nước và nỗi lòng u hoài, day dứt của một nhà nho. Những hình ảnh quen thuộc như bầu trời xanh, ngọn trúc, ánh trăng, tiếng ngỗng trời đều được nhà thơ thể hiện bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu nhạc điệu, đậm chất thơ.

Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với cấu trúc chặt chẽ, ngôn từ chọn lọc, hình ảnh giàu sức gợi. Từ ngữ được tác giả sử dụng rất tinh tế, tạo nên sự hòa quyện giữa cảm xúc và cảnh vật, làm nổi bật vẻ đẹp thanh cao, thoát tục của mùa thu làng quê Việt Nam.

“Thu vịnh” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu đầy chất thơ mà còn là nơi Nguyễn Khuyến bộc lộ những nỗi niềm sâu kín về nhân sinh, thời cuộc. Qua bài thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên của làng quê Việt Nam mà còn thấm thía hơn tình yêu quê hương, đất nước và nhân cách cao đẹp của thi nhân. Bài thơ mãi mãi là biểu tượng của thơ ca về làng quê và tâm hồn thanh cao của Nguyễn Khuyến.

Phân tích bài thơ Thu vịnh dành cho học sinh giỏi

Nhắc đến thơ tình yêu, không thể không nhắc Xuân Diệu; thơ cách mạng gọi tên Tố Hữu; còn với thơ về mùa thu, Nguyễn Khuyến là một đỉnh cao bất hủ. Chùm thơ về mùa thu của ông gồm "Thu vịnh," "Thu điếu," và "Thu ẩm" đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu văn học, đặc biệt bởi bức tranh thiên nhiên thôn dã và tâm hồn tinh tế của thi nhân.

Cả ba bài thơ đều lấy bối cảnh làng quê Bình Lục, quê hương của Nguyễn Khuyến, một vùng đồng chiêm trũng chỉ cấy được một mùa, còn lại ngập nước. Đó là khung cảnh mộc mạc, quen thuộc với ao chuôm, bờ tre quanh co ôm lấy những mái tranh nghèo. Trong "Thu vịnh," nhà thơ cảm nhận mùa thu từ cao xuống thấp, bắt đầu với bầu trời rộng lớn và bao la:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

Từ "xanh ngắt" gợi sắc xanh thăm thẳm, không chỉ là màu sắc mà còn mở ra không gian vô tận, sâu lắng. Kết hợp với cụm "mấy từng cao," bầu trời trở nên tầng tầng lớp lớp, gợi cảm giác bao la, bất tận. Trên nền trời xanh ấy, "cần trúc" – một cành trúc non mảnh mai – khẽ lay động trước làn gió "hắt hiu" của mùa thu. Gió không ào ạt mà nhẹ nhàng, gợi chút hững hờ, phảng phất nỗi buồn man mác. Hình ảnh cần trúc mảnh mai đong đưa giữa bầu trời càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của cảnh thu, vừa động vừa tĩnh, vừa đơn sơ lại thanh tao.

Hai câu thơ như khắc họa một bức tranh với những đường nét và sắc màu tối giản nhưng hài hòa, đồng điệu với tâm hồn thi sĩ. Dẫu chỉ là bầu trời và một nhành trúc, nhưng đủ để ta thấy cả hồn thu len lỏi trong từng nét vẽ.

"Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào."

Hai câu luận đưa người đọc đến với mặt nước thu và ánh trăng. Màu nước biếc đặc trưng của mùa thu hòa cùng làn sương mỏng trông như tầng khói phủ, tạo nên vẻ mơ màng, huyền ảo. Từ "tầng khói phủ" giàu tính gợi hình, khiến lớp sương như dày hơn, sâu hơn, ẩn chứa những điều khó nắm bắt. Hình ảnh này không chỉ đẹp mà còn phảng phất chút thiêng liêng, mơ hồ của cảnh vật trong sự cảm nhận tinh tế của thi nhân.

Song thưa, nơi ánh trăng lặng lẽ xuyên qua, không chỉ là một khung cửa nhỏ mà còn mở ra một bầu trời mênh mông. Ánh trăng len lỏi qua song thưa, tạo nên sự giao hòa giữa không gian hẹp và rộng, giữa hữu hạn và vô hạn. Cảnh sắc như lặng lẽ nhưng lại đầy tâm trạng, khơi gợi suy tư trong lòng người.

Cảnh sắc mùa thu được Nguyễn Khuyến cảm nhận qua thời gian: từ bầu trời xanh ngắt ban trưa, nước biếc lúc hoàng hôn đến ánh trăng trong đêm. Mỗi hình ảnh mang một nét riêng nhưng cùng hòa quyện trong sự tinh tế và sâu lắng, thể hiện tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ.

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào."

Đến đây, cảm xúc chủ quan của thi nhân bắt đầu đậm nét hơn. Trước mắt là hoa nở, nhưng Nguyễn Khuyến lại cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Có lẽ, cảnh vật hiện tại đã khơi gợi ký ức quá khứ, khiến thi nhân như lùi về một thời xa xưa. Sự hòa trộn giữa hiện tại và quá khứ tạo nên nỗi niềm bâng khuâng khó tả.

Tiếng ngỗng kêu từ trên cao lại càng làm tăng thêm cảm giác mơ hồ, xao động trong lòng người. Câu hỏi "ngỗng nước nào?" không chỉ thể hiện sự băn khoăn mà còn là tiếng lòng đầy trăn trở, như đang tìm kiếm một điều gì đó không rõ ràng. Cảnh vật và tâm trạng hòa quyện, làm nổi bật chiều sâu tâm hồn thi sĩ.

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."

Khép lại bài thơ là dòng cảm xúc ngập ngừng của Nguyễn Khuyến. Hứng thơ dâng trào, nhưng ông lại "thẹn với ông Đào." Có lẽ đó là nỗi thẹn của một thi nhân chưa đạt đến sự thanh cao, thoát tục như Đào Tiềm – nhà thơ nổi tiếng thời Tấn, người dứt bỏ danh lợi để sống một đời thanh sạch. Một chữ "thẹn" lửng lơ, chứa đựng sự tự vấn và lòng kính trọng, khiến câu thơ thêm phần sâu sắc và ý nhị.

"Thu vịnh" không chỉ là một bức tranh mùa thu tĩnh lặng mà còn là lời tự sự của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết. Qua bài thơ, Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa vẻ đẹp đơn sơ, bình dị của làng quê mà còn gửi gắm cái tâm trong sáng, mộc mạc của chính mình – một thi nhân sống giữa cuộc đời mà vẫn giữ được vẻ thanh tao, tinh tế. Đây thực sự là một trong những bài thơ đỉnh cao về mùa thu, góp phần làm giàu thêm di sản thơ ca Việt Nam.

>>> Xem thêm: 23+ Bài mẫu phân tích nhân vật Mị hay nhất được chọn lọc

Với những mẫu phân tích đa chiều về Thu vịnh, người đọc không chỉ cảm nhận được tài hoa của Nguyễn Khuyến trong việc miêu tả cảnh sắc mùa thu mà còn khám phá tâm hồn nhạy cảm, đầy trăn trở của thi nhân. Hy vọng đây sẽ là nguồn cảm hứng quý báu, giúp học sinh và bạn đọc hiểu thêm giá trị sâu sắc của tác phẩm này.

Xem thêm:
  • • Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
  • • Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2024 siêu hot: Tủ sách Thích Văn học
  • • Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học: Tài liệu
  • • Tham khảo các bài văn mẫu tại chuyên mục: Văn Mẫu
  • • Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học
Danh mục: Phân tích

No tags found for this post.