Văn Học VN
Menu
10+ Mẫu phân tích Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi hay nhất - vanhocvn.net

10+ Mẫu phân tích Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi hay nhất

23rd Nov, 2024

Nguyễn Trãi (1380–1442), danh nhân văn hóa vĩ đại, không chỉ xuất sắc trong chính trị mà còn để lại di sản văn học đặc sắc. Bài thơ “Thuật hứng 24” thuộc tập “Quốc âm thi tập” khắc họa lối sống thanh nhàn và nhân cách cao đẹp của ông. Mời bạn cùng Vanhocvn.net khám phá các mẫu phân tích để hiểu rõ hơn về tác phẩm.

Phân tích Thuật hứng 24 mẫu 1

Nguyễn Trãi (1380–1442) là một trong những danh nhân văn hóa vĩ đại của dân tộc, một nhà thơ, nhà tư tưởng kiệt xuất đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều di sản quý báu, trong đó bài thơ "Thuật hứng" là một minh chứng tiêu biểu cho lối sống thanh cao, giản dị nhưng đầy trách nhiệm của một bậc hiền nhân. Với những vần thơ nhẹ nhàng mà sâu sắc, Nguyễn Trãi đã khắc họa tinh thần hướng về thiên nhiên, thể hiện khát vọng sống thanh nhàn nhưng vẫn luôn đau đáu nỗi lòng vì dân vì nước.

Con người ai cũng mơ ước một cuộc sống thanh nhàn, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc của lối sống ấy. Với Nguyễn Trãi, sống thanh nhàn không đơn thuần là rũ bỏ danh vọng hay những ồn ào nơi thế sự, mà còn là tìm đến sự hòa hợp với thiên nhiên, sống giản dị nhưng thanh cao. Trong bài Thuật hứng 24, Nguyễn Trãi đã bộc bạch những cảm xúc, suy tư của mình qua từng câu thơ mộc mạc nhưng tràn đầy triết lý:

"Công danh đã được, hợp về nhàn
Lành dữ âu chi, thế nghị khen."

Với một người như Nguyễn Trãi, từng ở đỉnh cao của công danh, lối sống thanh nhàn không phải là sự trốn tránh trách nhiệm, mà là lựa chọn sáng suốt sau khi đã cống hiến hết mình. Ông hiểu rõ những cám dỗ và thị phi chốn quan trường, nơi mà danh vọng nhiều khi đổi bằng sự tha hóa. Vì thế, ông lựa chọn từ bỏ những phù phiếm của vinh hoa để trở về với cuộc sống bình dị, không màng đến lời khen chê của thế tục.

Khi rời xa chốn quan trường, Nguyễn Trãi tìm niềm vui trong những công việc giản dị, hòa mình vào thiên nhiên để cảm nhận sự an nhiên, tự tại:

"Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen."

Những hình ảnh như “vớt bèo,” “cấy muống,” “ương sen” gợi lên bức tranh đời sống thanh bình, gần gũi với thiên nhiên. Dẫu từng là một vị quan lớn, Nguyễn Trãi vẫn không ngần ngại lao động chân tay, làm những việc mà người đời cho là thấp kém. Nhưng với ông, đó lại là niềm vui lớn lao, bởi thiên nhiên chính là tri kỷ, là nơi mà tâm hồn ông tìm thấy sự thư thái, thanh tịnh.

"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then."

Hai câu thơ này tiếp tục làm nổi bật sự hòa hợp giữa Nguyễn Trãi và thiên nhiên. “Phong” (gió) và “nguyệt” (trăng) không chỉ là những yếu tố thiên nhiên vô tri, mà đã trở thành những người bạn tâm tình, giúp ông cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống. Cảnh vật thiên nhiên gợi lên sự đủ đầy, nhưng không phải giàu có về vật chất, mà là sự giàu có về tinh thần – một cuộc sống thanh cao, không vướng bụi trần.

Mặc dù sống trong cảnh nhàn nhã, Nguyễn Trãi chưa từng quên trách nhiệm với đất nước. Ông vẫn giữ trọn vẹn “một lòng trung lẫn hiếu,” luôn hướng về nhân dân và đất nước:

"Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."

Dẫu chọn cuộc sống ẩn dật, nhưng lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi vẫn không phai nhòa. Ông xem mình như một tấm gương sáng, luôn mài giũa để không bị “khuyết,” không bị “đen,” tượng trưng cho sự kiên định trong đạo lý và phẩm cách. Ông đau đáu trước tình cảnh nhân dân lầm than, không ngừng suy tư về trách nhiệm của một người làm quan, ngay cả khi đã rời xa triều chính.

Qua bài Thuật hứng 24, Nguyễn Trãi không chỉ khắc họa cuộc sống thanh nhàn của mình, mà còn gửi gắm thông điệp sâu sắc về lối sống giản dị, thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên. Bài thơ là tấm gương về sự liêm khiết, chính trực và lòng yêu nước, thương dân của một bậc hiền nhân.

Đọc bài thơ, chúng ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn hiểu hơn về lẽ sống cao quý của Nguyễn Trãi – một con người đã sống trọn vẹn cho dân tộc, ngay cả khi đã chọn con đường rời xa danh vọng. Đó cũng là bài học lớn cho mỗi người trong việc giữ gìn trách nhiệm với quê hương, đất nước, đồng thời biết trân trọng những giá trị giản dị, bình yên trong cuộc sống.

Phân tích Thuật hứng 24 mẫu 2

Nguyễn Trãi, một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc, không chỉ là một nhà chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ xuất sắc. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ông đã góp phần không nhỏ vào những chiến thắng vang dội trước quân Minh nhờ tài thao lược. Sau khi đất nước giành độc lập, Nguyễn Trãi trở thành một vị quan liêm chính, sống thanh bạch và luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Tuy nhiên, chính sự thẳng thắn và chính trực ấy đã khiến ông trở thành mục tiêu của những kẻ tiểu nhân, khiến ông phải từ bỏ chốn quan trường, lui về ẩn cư tại núi Côn Sơn. Tại đây, ông đã sáng tác nên nhiều tác phẩm giá trị, trong đó có bài thơ Thuật hứng, thể hiện tâm hồn thanh cao và tấm lòng trăn trở với dân với nước.

Về ở ẩn, Nguyễn Trãi tìm thấy niềm vui trong cuộc sống giản dị, hòa mình vào thiên nhiên. Ngay từ những câu mở đầu bài thơ, ông đã bộc lộ tâm trạng nhẹ nhõm, thanh thản khi rũ bỏ những thị phi chốn quan trường:

"Công danh đã được hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen"

"Công danh" vốn là cái đích mà bao nhà Nho mơ ước, như Nguyễn Công Trứ từng viết: "Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông". Thế nhưng, đối với Nguyễn Trãi, khi đã trải qua vinh hoa, quyền lực, ông nhận ra giá trị thực sự không nằm ở danh vọng, mà ở cuộc sống an nhàn, thanh thản. Từ "hợp" không chỉ thể hiện sự nên buông bỏ mà còn hàm ý về sự hài hòa giữa tâm hồn và hoàn cảnh. Ở đó, ông không còn bận lòng bởi những lời khen chê, thị phi của thế gian: "Lành dữ âu chi thế nghị khen".

Trở về với thiên nhiên, Nguyễn Trãi tận hưởng niềm vui trong những công việc giản dị, dung dị của một người ẩn sĩ:

"Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen"

Từ một vị quan tài năng từng khuynh đảo chốn triều đình, nay Nguyễn Trãi hòa mình vào những công việc bình thường như bao người nông dân khác: vớt bèo, cấy muống, trồng sen. Những hình ảnh ấy không chỉ gợi lên cuộc sống mộc mạc, thanh bạch mà còn phản chiếu tâm hồn trong sạch của ông. Không cần đến sơn hào hải vị, chỉ cần những thức quà quê giản dị cũng đủ để ông cảm thấy mãn nguyện. Trong sự giao hòa với thiên nhiên, Nguyễn Trãi như tìm lại được chính mình, một tâm hồn không còn bị bụi trần vướng bận.

"Kho thu phong nguyệt chở đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vậy then"

Những câu thơ tiếp theo đưa người đọc vào thế giới đầy chất thơ của Nguyễn Trãi. Ông lấy gió, trăng làm bầu bạn, coi những hiện tượng thiên nhiên như kho tàng quý giá mà ông tận hưởng hàng ngày. Sự thanh cao của tâm hồn ông được ví như ánh trăng, cơn gió, luôn tự do và trong lành. Qua đó, ta cảm nhận được tấm lòng thanh bạch, trong sáng của một con người đã từ bỏ hết danh lợi phù phiếm để sống đời nhàn dã.

Thế nhưng, dù đã lui về ẩn cư, lòng trung hiếu của ông đối với đất nước vẫn chưa một lần phai nhạt:

"Bụi có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"

Nguyễn Trãi luôn mang nỗi trăn trở về vận mệnh quốc gia, dân tộc. Dù không còn chốn quan trường, ông vẫn giữ trọn vẹn tấm lòng trung hiếu, son sắt với nước non. Câu thơ vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa khẳng định khí chất thanh cao không thể vấy bẩn của Nguyễn Trãi.

Thuật hứng không chỉ là bức tranh về cuộc sống nhàn dã mà còn là bài ca về nhân cách cao đẹp của một nhà nho ẩn sĩ. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được một con người sống giữa thiên nhiên nhưng trái tim vẫn hướng về quốc gia, dân tộc. Nguyễn Trãi đã trở thành biểu tượng của nhân nghĩa và lý tưởng cao cả, một bậc đại nhân đáng kính trong lịch sử văn học và chính trị Việt Nam.

Phân tích Thuật hứng 24 mẫu 3

Nguyễn Trãi (1380–1442) được vinh danh là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời văn hóa Đại Việt thế kỷ XV. Ông không chỉ là một anh hùng dân tộc, một nhà quân sự tài ba, mà còn là một danh nhân văn hóa lỗi lạc. Tác phẩm "Quốc âm thi tập" của ông là kiệt tác thơ chữ Nôm đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, với 254 bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, đạo lý nhân nghĩa và triết lý sống cao đẹp. Trong đó, bài thơ "Thuật hứng – 24" đã khắc họa sâu sắc lối sống thanh nhàn, cốt cách thanh cao và tấm lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi, làm sáng ngời nhân cách một bậc kẻ sĩ chân chính.

Ngay mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi bày tỏ quan niệm của mình về công danh và sự lựa chọn rời xa chốn quan trường để tìm về cuộc sống nhàn tản:

"Công danh đã được, hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi, thế nghị khen."

“Công danh đã được” là lời khẳng định ông đã hoàn thành trách nhiệm với đất nước. Là bậc văn võ toàn tài, Nguyễn Trãi từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), là mưu sĩ xuất sắc của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống Minh, và là người đặt nền móng cho giáo dục triều Lê. Thế nhưng, khi đạt tới đỉnh cao sự nghiệp, ông lại chọn cách từ bỏ vinh hoa phú quý, trở về sống một đời thanh nhàn. Đối với ông, sự mưu cầu công danh chỉ là gánh nặng, còn cuộc sống giản dị, bình yên mới là “đáng” và “nên”.

Câu thơ thứ hai thể hiện rõ thái độ ung dung, vượt lên những thị phi khen chê nơi thế sự. Nguyễn Trãi không còn bận lòng với “lành dữ,” “thế nghị,” mà để mọi phán xét cho thời gian và lịch sử. Đây là cách ứng xử đầy khí phách, thể hiện tâm thế tự tại của một người đã thoát vòng danh lợi.

Khi rời xa quan trường, Nguyễn Trãi chọn Côn Sơn làm nơi nương náu tâm hồn, nơi ông tìm thấy sự an nhiên qua những công việc giản dị hàng ngày:

"Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen."

Hai câu thơ lục ngôn mộc mạc, bình dị nhưng tràn đầy thi vị, gợi lên bức tranh đời sống thanh bình nơi làng quê. “Vớt bèo,” “cấy muống,” “phát cỏ,” “ương sen” là những công việc quen thuộc của người nông dân, nhưng qua đôi mắt của Nguyễn Trãi, nó trở thành niềm vui giản đơn, thanh khiết.

Phép đối cân xứng giữa “ao cạn” với “đìa thanh,” “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” không chỉ làm nổi bật nhịp sống điều hòa, nhàn nhã mà còn cho thấy sự cần mẫn, chan hòa với thiên nhiên của nhà thơ. Dẫu từng giữ chức trọng quyền cao, Nguyễn Trãi vẫn chọn một cuộc sống thanh đạm, để giữ gìn tâm hồn thanh cao và trong sạch.

Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi được bộc lộ sâu sắc qua hai câu thơ tiếp theo, nơi ông ví gió trăng như người bạn tri kỷ, cùng sẻ chia niềm vui:

"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then."

Phép thậm xưng được sử dụng tài tình khi gió thu và ánh trăng được hình tượng hóa thành những “kho” đầy ắp, thuyền chở mây khói nặng trĩu như thực. Qua đó, ta thấy một tâm hồn phong phú, chan hòa cùng thiên nhiên, tận hưởng vẻ đẹp vô tận của tạo hóa. Gió, trăng, mây, khói – những thứ vốn vô hình, trừu tượng – qua ngòi bút Nguyễn Trãi đã trở nên sống động, hữu hình.

Đây không chỉ là cảm hứng thơ ca, mà còn là triết lý sống của ông: tìm niềm vui trong những điều giản dị, tránh xa cám dỗ vật chất. Nguyễn Trãi đã thực sự đạt tới cảnh giới “tâm hồn ung dung,” một lối sống mà ít ai có thể thấu hiểu và chạm tới.

Dù sống ẩn dật nơi quê nhà, tấm lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi vẫn không hề phai nhạt:

"Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."

Cụm từ cổ “bui có” (chỉ có) được Nguyễn Trãi sử dụng đầy khiêm nhường, nhưng lại là lời khẳng định mạnh mẽ về phẩm chất cao quý của ông. Lòng trung hiếu – trung với vua, hiếu với dân và cha mẹ – là đạo lý làm người mà ông luôn khắc cốt ghi tâm. Qua hình ảnh ẩn dụ “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen,” Nguyễn Trãi khẳng định sự bền vững, trong sạch của tấm lòng mình, dẫu có trải qua bao sóng gió hay thử thách.

“Thuật hứng – 24” được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú, với cấu trúc chặt chẽ và ngôn từ trong sáng, giản dị mà giàu ý nghĩa. Các hình ảnh thơ quen thuộc như “bèo,” “muống,” “gió,” “trăng” được khắc họa qua nghệ thuật đối và biện pháp thậm xưng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa gần gũi, vừa thi vị.

Bài thơ không chỉ phản ánh quan niệm sống thanh nhàn, hòa hợp với thiên nhiên của Nguyễn Trãi, mà còn thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc. Lòng trung hiếu của ông là tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau, là biểu tượng cho tinh thần yêu nước và đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Bài thơ “Thuật hứng – 24” không chỉ là lời tự bạch về lối sống thanh nhàn của Nguyễn Trãi, mà còn là bản tuyên ngôn về nhân cách cao đẹp của một bậc kẻ sĩ chân chính. Ở đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của một con người liêm khiết, trung hiếu, luôn trăn trở với dân với nước. Những vần thơ mộc mạc nhưng thấm đượm tinh thần yêu nước, yêu thiên nhiên của ông sẽ mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ người Việt Nam, như lời ngợi ca của vua Lê Thánh Tông:

"Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo."

(Tấm lòng Nguyễn Trãi sáng tựa sao Khuê).

>>> Xem thêm: Top 30+ bài phân tích 8 câu đầu Việt Bắc của Tố Hữu ấn tượng

Hy vọng qua các mẫu phân tích trên, bạn đã hiểu rõ hơn về vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Thuật hứng 24”. Từ đó, có thể tự mình cảm nhận và phân tích tác phẩm một cách sâu sắc hơn.

Xem thêm:
  • • Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
  • • Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2024 siêu hot: Tủ sách Thích Văn học
  • • Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học: Tài liệu
  • • Tham khảo các bài văn mẫu tại chuyên mục: Văn Mẫu
  • • Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học
Danh mục: Phân tích

No tags found for this post.