Văn Học VN
Menu
5+ Mẫu phân tích đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá cao nhất - vanhocvn.net

5+ Mẫu phân tích đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá cao nhất

19th Nov, 2024

Hàn Mặc Tử, một thi nhân tài hoa của phong trào Thơ Mới, đã ghi dấu với những vần thơ huyền ảo và chan chứa yêu thương. "Đây thôn Vĩ Dạ" là kiệt tác tiêu biểu, một bức tranh quê xứ Huế vừa trong sáng, vừa đượm nỗi buồn. Dưới đây là những mẫu phân tích sâu sắc về thi phẩm, mời bạn đọc cùng khám phá.

Phân tích đây thôn Vĩ Dạ -  Mẫu 01

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tuyệt phẩm của Hàn Mặc Tử, thấm đượm nỗi niềm hoài niệm và khát khao. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của thi sĩ hướng về thôn Vĩ – nơi gắn bó với mối tình đầu đầy mộng ảo, mà còn là lời thì thầm với thiên nhiên, cuộc đời, và cả chính nỗi đau của một thi nhân đang đối mặt với bệnh tật và cách biệt. Từng câu thơ như một viên ngọc sáng, kết tinh từ cảm xúc chân thành, mang vẻ đẹp vừa trong trẻo vừa u hoài.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ khẽ gợi chút trách móc nhẹ nhàng, vừa như lời mời thân thiết:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Dường như lời gọi ấy mời thi nhân trở về để thưởng ngoạn vẻ đẹp thôn quê xứ Huế. Đáp lại, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh tràn đầy sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Hình ảnh hàng cau thẳng tắp, xanh tươi trong ánh nắng ban mai tượng trưng cho sức sống và sự thanh tao, ngay thẳng. Vườn cây mượt mà, "xanh như ngọc," được ánh nắng đầu ngày chiếu rọi, trở thành biểu tượng cho sự trù phú, dịu dàng của thôn quê. Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” không chỉ khắc họa nét phúc hậu, đằm thắm của con người xứ Huế, mà còn gợi lên sự kín đáo, thanh lịch, tạo nên vẻ đẹp vừa thực vừa mơ.

Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian khác – dòng sông Hương thơ mộng nhưng lại nhuốm màu u sầu:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.”

Hai câu thơ như một điệu nhạc buồn của sự chia xa. Gió và mây – vốn là đôi bạn song hành, nay chia đôi lối. Dòng nước lững lờ, hoa bắp lay khẽ, tất cả như hòa vào nỗi lòng cô đơn, trống trải của thi sĩ.

Nhưng trong cảnh buồn vẫn ánh lên chút kỳ ảo:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử, con thuyền và dòng sông tràn ngập ánh trăng, tạo nên một bức tranh huyền diệu. Trăng là biểu tượng của cái đẹp thanh cao và sự giao hòa giữa thực và mộng. Nhưng câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” lại phảng phất nỗi lo lắng, mong manh, như sợ rằng hạnh phúc sẽ trôi qua quá nhanh, không kịp níu giữ.

Khổ cuối là khúc nhạc của những giấc mơ tan vỡ và hoài niệm:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”

Điệp ngữ “khách đường xa” lặp lại đầy khắc khoải, nhấn mạnh khoảng cách xa vời giữa thực tại và kỷ niệm. Hình ảnh “áo em trắng” – sắc trắng của tà áo dài Huế, của thanh khiết và mộng mơ, nay nhòe đi trong sương khói.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Lời thơ khép lại như một tiếng thở dài. Sương khói phủ mờ thực tại, che khuất nhân ảnh, khiến tất cả trở nên xa xôi, mơ hồ. Chữ “ai” lặp lại hai lần, mang theo nỗi hoài nghi, trăn trở về sự bền chặt của tình cảm, của cuộc đời.

“Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là bài thơ viết về một địa danh cụ thể hay một mối tình đơn phương, mà còn là tiếng nói sâu sắc về tình yêu cuộc sống và khát vọng hạnh phúc của Hàn Mặc Tử. Bằng ngôn từ trong sáng, hình ảnh thơ đầy sáng tạo và cảm xúc chân thành, bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc, để lại dấu ấn khó phai về một thiên tài thi ca mang hồn thơ mãi đẹp.

Phân tích đây thôn Vĩ Dạ -  Mẫu 02

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được Hàn Mặc Tử sáng tác trong những ngày tháng cuối đời, khi ông lâm bệnh hiểm nghèo tại trại phong Quy Hòa. Từ một tấm bưu ảnh nhỏ bé, chứa đựng lời thăm hỏi và phong cảnh thôn Vĩ Dạ do Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng, bài thơ đã ra đời, trở thành kiệt tác tiêu biểu của thi ca Việt Nam. Với Hàn Mặc Tử, tấm bưu ảnh ấy không chỉ đơn thuần là một mối quan hệ xã giao mà còn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ, đánh thức những rung động sâu sắc trong trái tim nhà thơ – một trái tim vừa tràn ngập tình yêu vừa chất chứa nỗi đau ly biệt.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi đầy trách yêu, tựa như lời dỗi hờn nhẹ nhàng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Dường như người con gái nơi thôn Vĩ đang trách móc thi sĩ vì sao không ghé thăm miền quê yên bình, nhưng đó thực chất là tiếng vọng từ ký ức, là lời mời gọi trong tâm tưởng của Hàn Mặc Tử. Ngay sau câu hỏi, thi nhân đã hiện hữu tại thôn Vĩ trong một cuộc hành trình bằng tâm thức:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.”

Ánh “nắng mới” dịu dàng buổi bình minh thắp sáng những hàng cau xanh tươi, mang đến cảm giác tinh khôi, trong trẻo. Điệp từ “nắng” nhấn mạnh vẻ đẹp thanh khiết, rạng rỡ của thiên nhiên, như ánh sáng hồi sinh trong tâm hồn thi sĩ.

Tiếp nối là khung cảnh vườn tược xứ Huế qua nét vẽ tài hoa:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Vườn cây mướt xanh, tươi tắn như ngọc bích, vừa gần gũi, vừa lung linh trong ánh nắng sớm. Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” gợi nét thanh tao, kín đáo của con người xứ Huế. Đó có thể là bóng dáng người con gái với khuôn mặt phúc hậu, cũng có thể là chính thi sĩ trong những năm tháng trẻ trung, phong lưu. Tất cả hòa quyện để tạo nên một khung cảnh thôn Vĩ tràn đầy sức sống và tình yêu.

Nếu khổ đầu mang màu sắc tinh khôi của buổi sớm, thì khổ hai lại chuyển sang bầu không khí buồn bã, lặng lẽ của buổi chiều muộn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.”

Cảnh vật xứ Huế thơ mộng nhưng thấm đẫm nỗi buồn chia xa. Gió và mây vốn luôn song hành, nay lại mỗi người một ngả, gợi cảm giác ly biệt. Dòng nước lững lờ trôi, hoa bắp lay động, tất cả như chìm trong sự tĩnh lặng buồn tẻ.

Nhưng giữa nỗi buồn ấy, thi sĩ vẫn khát khao tìm thấy hạnh phúc:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình ảnh thuyền và sông trăng đầy mộng mơ, huyền ảo – biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi mà nhà thơ khao khát. Tuy nhiên, chữ “kịp” như một tiếng thở dài phấp phỏng, lo âu, sợ rằng hạnh phúc ấy đến muộn màng, không còn đủ thời gian để thi nhân chạm tới.

Khổ thơ cuối là sự đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực đau đớn:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”

Điệp ngữ “khách đường xa” nhấn mạnh khoảng cách mơ hồ giữa thi sĩ và người con gái thôn Vĩ. Hình ảnh “áo em trắng” vừa trong trẻo, thanh khiết nhưng cũng nhòa đi trong sương khói của ký ức và bệnh tật. Nhà thơ dường như cảm nhận được sự xa xôi, không thể với tới của người mình yêu.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hai câu thơ khép lại bài thơ trong nỗi buồn tuyệt vọng. Sương khói hư ảo không chỉ che lấp hình bóng của người con gái mà còn tượng trưng cho sự ngắn ngủi, mong manh của tình yêu và cuộc đời. Chữ “ai” được lặp lại hai lần, chất chứa biết bao câu hỏi không lời đáp, càng khắc sâu nỗi cô đơn, bơ vơ trong lòng thi sĩ.

“Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bài thơ tình yêu mà còn là khúc hoài niệm về cuộc đời. Qua từng câu chữ, Hàn Mặc Tử đã tái hiện một bức tranh xứ Huế vừa hiện thực vừa mộng ảo, vừa tràn đầy sức sống lại nhuốm màu u hoài. Với những hình ảnh giàu sức gợi, ngôn từ tinh tế, bài thơ là tiếng lòng của thi sĩ trước tình yêu, thiên nhiên và số phận, để lại trong lòng người đọc niềm xúc động sâu sắc và bài học quý giá về sự trân trọng cuộc sống, dù ngắn ngủi hay đau thương.

Phân tích đây thôn Vĩ Dạ -  Mẫu 03

Hàn Mặc Tử là một hồn thơ độc đáo trong phong trào Thơ mới Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm với sức sáng tạo mạnh mẽ và những thi phẩm giá trị như: Gái quê, Thơ điên, Chơi giữa mùa trăng… Trong số đó, "Đây thôn Vĩ Dạ" được xem là một kiệt tác, vừa là bức tranh tuyệt đẹp về quê hương xứ Huế, vừa là tiếng lòng khắc khoải của một tâm hồn yêu đời, yêu người mãnh liệt:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Ai biết tình ai có đậm đà.”

Bài thơ được rút từ tập Thơ điên (1940), và theo lời thi sĩ Quách Tấn, cảm hứng sáng tác đến từ tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc, một cô gái Huế, gửi cho Hàn Mặc Tử. Tấm bưu thiếp ấy, với hình ảnh dòng sông, con đò và ánh bình minh, đã khơi dậy cảm xúc mãnh liệt trong lòng nhà thơ – lúc này đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Từ nỗi nhớ và hoài niệm, ông đã dệt nên những vần thơ vừa thực vừa mộng, thấm đẫm tình yêu và nỗi buồn xa cách.

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi chan chứa yêu thương và hoài niệm:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi vừa như lời trách nhẹ nhàng, vừa như sự tự vấn, thể hiện khát khao được trở về nơi chốn xưa. Từ “chơi” được sử dụng thay vì “thăm” làm câu thơ trở nên gần gũi, thân tình. Hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua những nét vẽ tuyệt đẹp:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Hình ảnh hàng cau trong ánh nắng ban mai gợi lên sự sống động và tinh khôi, đặc trưng của làng quê Việt Nam. Từ “mướt” trong “Vườn ai mướt quá” diễn tả sức sống tươi mới, tràn trề, như một viên ngọc quý giữa thiên nhiên. Đặc biệt, hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” không chỉ mang đến vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật, mà còn thể hiện sự kín đáo, duyên dáng đặc trưng của con người xứ Huế.

Từ những ký ức tươi đẹp, bài thơ chuyển sang tâm trạng u buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.”

Phép nhân hóa và đối lập gió – mây tạo nên hình ảnh chia lìa, đầy tiếc nuối. Cảnh sắc xứ Huế vốn thơ mộng nay bị phủ một lớp màu buồn, như phản chiếu nỗi lòng cô đơn, tuyệt vọng của nhà thơ. Câu thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” chất chứa khát khao mãnh liệt – khát khao được sống, được yêu, nhưng cũng là nỗi lo sợ về giới hạn của cuộc đời đang cận kề.

Bài thơ khép lại bằng sự hòa quyện giữa mộng và thực, đầy mơ hồ và khắc khoải:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hình ảnh “áo em trắng quá” vừa biểu trưng cho sự tinh khôi, vừa gợi cảm giác xa vời, ảo ảnh. “Sương khói mờ nhân ảnh” khiến người đọc cảm nhận rõ rệt nỗi xa cách và sự bất lực của thi nhân trước cuộc sống và tình yêu. Câu hỏi kết thúc bài thơ là nỗi hoài nghi đầy day dứt về tình yêu, nhưng đồng thời cũng khẳng định sự sống mãnh liệt trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.

Bài thơ sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật như điệp từ, nhân hóa, so sánh, và các câu hỏi tu từ, tạo nên sức gợi cảm mạnh mẽ. Những hình ảnh giàu chất thơ và ngôn từ tinh tế đã khắc họa thành công vẻ đẹp của thôn Vĩ và tâm trạng phức tạp của nhà thơ.

“Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bài thơ về nỗi nhớ quê hương mà còn là tiếng lòng của một tâm hồn tha thiết yêu đời trong những năm tháng cuối đời đau thương. Thi phẩm đã làm sống lại vẻ đẹp của Huế – của thôn Vĩ – trong lòng độc giả muôn đời, như Thu Bồn từng viết:

“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô.”

Phân tích đây thôn Vĩ Dạ -  Mẫu 04

Đỗ Lai Thúy từng gọi phong trào Thơ Mới là “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc,” và trong “cây nấm lạ” ấy, Hàn Mặc Tử chính là một sắc thái kỳ diệu không thể lẫn lộn. Thơ của Hàn, từ lâu, đã mê hoặc những tâm hồn yêu thi ca bằng sự điên loạn, đầy ma mị của hồn, trăng, và máu. Nhưng giữa rừng thơ quái dị ấy, bất ngờ mọc lên một bông hoa thanh khiết, một ánh sáng dịu dàng và trong trẻo – “Đây thôn Vĩ Dạ”. Thi phẩm là lời hoài niệm tha thiết về một miền quê, nơi ký ức và khát khao hòa quyện, nơi cảm xúc con người thăng hoa giữa những đớn đau đời thường.

Chỉ với ba khổ thơ, Đây thôn Vĩ Dạ đã kết tinh mọi nỗi nhớ, khát vọng, và cả những hoài nghi, tuyệt vọng của một tâm hồn yêu đời mãnh liệt. Gắn với câu chuyện tình đơn phương giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc – người con gái Huế dịu dàng, bài thơ không chỉ là một chuyến hành hương trong tâm tưởng mà còn là minh chứng cho khả năng vẽ nên những hình ảnh sống động từ những đau đớn tột cùng của thi nhân.

Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi, nhẹ nhàng mà chan chứa yêu thương, gợi ngay đến vẻ mộng mơ và chất thơ đặc trưng của xứ Huế:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tựa như một lời trách yêu, một lời mời tha thiết, vừa như lời tự vấn của chính Hàn Mặc Tử. “Về chơi,” chứ không phải “về thăm,” tạo nên sự gần gũi và gắn bó. Nhưng “không về” chứ không phải “chưa về,” như một lời khẳng định đầy chua xót – rằng thi nhân không còn cơ hội trở lại. Chỉ bằng một câu hỏi, Hàn đã gợi lên bao ý niệm sâu sắc, vừa thể hiện nỗi đau chia cách, vừa chạm đến khát vọng được sống trong ký ức.

Những câu thơ tiếp theo dựng lên một bức tranh thôn Vĩ đầy ánh sáng, tràn trề sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Nắng buổi sớm phủ lên hàng cau cao vút, làm cảnh vật như bừng sáng. Điệp từ “nắng” cùng cụm từ “nắng mới lên” không chỉ miêu tả ánh sáng tinh khôi mà còn gợi sự hồi sinh, khởi đầu. Vườn thôn Vĩ hiện lên mướt xanh như ngọc, vừa sống động vừa thanh cao. “Mướt” không chỉ là một tính từ, mà còn gợi sự tươi mới, tinh khôi, đầy sức sống.

Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” vừa hiện thực vừa cách điệu, phác họa nét phúc hậu, kín đáo của con người Huế. Ẩn hiện sau là hình bóng dịu dàng của người con gái, tượng trưng cho vẻ đẹp truyền thống đầy duyên dáng. Qua vài nét chấm phá, thôn Vĩ hiện lên vừa thực vừa mộng, chan chứa tình cảm thiết tha.

Nếu khổ đầu là ánh sáng và sức sống, thì khổ thứ hai ngập tràn một nỗi buồn man mác:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.”

Không gian sông nước xứ Huế vốn nên thơ, yên bình, nay lại mang sắc thái chia lìa và u tịch. Gió và mây, vốn luôn đồng hành, nay mỗi thứ một đường. Dòng nước “buồn thiu,” hoa bắp khẽ “lay” – từng chi tiết nhỏ đều gợi lên sự cô đơn, xa cách. Đây không còn là bức tranh ngoại cảnh, mà là bức tranh của tâm hồn thi nhân, nơi nỗi đau đã thấm vào cảnh vật.

Nhưng nỗi buồn ấy chưa dừng lại. Ngay sau đó, Hàn mở ra một không gian huyền ảo:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Sông Hương trở thành sông trăng, thuyền hóa thành thuyền trăng, cả cảnh vật chìm trong ánh trăng hư ảo. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” vừa là lời giục giã, vừa chất chứa nỗi lo âu và nuối tiếc. Chữ “kịp” gợi lên sự phấp phỏng, như thể thi nhân đang chạy đua với thời gian. Trăng – biểu tượng quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử – nay không còn là ánh trăng thanh khiết mà mang theo cả những khắc khoải và tuyệt vọng của một tâm hồn đang cận kề cái chết.

Bài thơ khép lại bằng những vần thơ mơ hồ, chơi vơi giữa thực và mộng:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Điệp từ “khách đường xa” cùng chữ “mơ” mở đầu gợi lên nỗi khắc khoải chờ đợi trong cõi vô vọng. Áo trắng – biểu tượng của sự tinh khôi – nay trở nên nhòa nhạt, khó nắm bắt. Hình bóng người con gái mờ ảo trong sương khói, tựa như một ảo ảnh không thể chạm đến.

Câu hỏi cuối cùng “Ai biết tình ai có đậm đà?” khép lại bài thơ trong nỗi hoài nghi và day dứt. Đây là tiếng lòng của một tâm hồn yêu đời, yêu người, nhưng luôn bị dằn vặt bởi những chia lìa và mất mát.

Đây thôn Vĩ Dạ là một tuyệt phẩm trong phong trào Thơ Mới, kết tinh vẻ đẹp của ngôn từ và nghệ thuật. Từ những hình ảnh đầy chất tượng trưng, đến câu hỏi tu từ xuyên suốt, thi phẩm vừa gợi tả cảnh sắc thiên nhiên, vừa chạm đến những cung bậc cảm xúc sâu thẳm nhất của con người.

Bằng tình yêu quê hương và khát vọng sống mãnh liệt, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bài thơ đẹp đến nao lòng. Như Chế Lan Viên từng nhận xét:

“Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi,
Và còn lại của thời kỳ này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử.”

Dẫu bao nhiêu năm tháng trôi qua, Đây thôn Vĩ Dạ vẫn mãi là bài thơ khiến độc giả rung động, một bông hoa trong trẻo giữa rừng thơ lạ kỳ của thi ca Việt Nam.

Phân tích đây thôn Vĩ Dạ -  Mẫu 05

Hoài Thanh từng nhận xét: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh… Ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử.” Giữa thế giới thơ mộng đầy u huyền, ma quái của Hàn Mặc Tử, "Đây thôn Vĩ Dạ" hiện lên như một bông hoa thanh khiết, trong trẻo, ôm trọn tình yêu và khát vọng được sống của một người thơ đang dần khép lại đời mình. Thi phẩm ấy, tuy ngắn gọn chỉ ba khổ thơ, nhưng chất chứa bao nhiêu nhung nhớ, khát khao, hoài nghi, và cả nỗi tuyệt vọng sâu thẳm. Nó là tiếng vọng từ trái tim, là bài ca cuối cùng về một miền quê gắn bó với thi nhân, về một tình yêu không thành nhưng mãi sống trong tâm tưởng.

Bài thơ ra đời trong những ngày cuối đời của Hàn Mặc Tử, khi ông chống chọi với bệnh tật tại trại phong Quy Hòa. Tấm bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái xứ Huế, đã đánh thức ký ức và khơi nguồn cảm xúc mãnh liệt trong thi nhân. Cảnh sắc thôn Vĩ hiện lên qua một cuộc hành hương trong tâm tưởng, vừa chân thực, vừa đậm màu huyền ảo.

Thi phẩm mở đầu bằng một câu hỏi như lời trách yêu nhẹ nhàng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi ấy có thể là lời mời của người con gái thôn Vĩ, cũng có thể là tiếng vọng từ chính tâm hồn thi nhân, tự vấn mình vì sao mãi cách biệt với nơi chốn đầy kỷ niệm. Từng từ ngữ mang sắc thái tha thiết nhưng ẩn chứa nỗi buồn chia lìa. Chữ “không về” thay vì “chưa về” hàm ý sự xa cách mãi mãi, còn cụm “về chơi” nhấn mạnh sự rời rạc, khách phương xa giờ đây chỉ có thể “ghé chơi”, không thể thuộc về nơi ấy nữa. Câu thơ như một tiếng thở dài, nhuốm màu chia ly từ những ngày còn sống.

Từ nỗi lòng trĩu nặng ấy, thi nhân dẫn ta vào một bức tranh quê thanh bình:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Khung cảnh thôn Vĩ hiện lên với nắng ban mai nhẹ nhàng, những hàng cau xanh mướt trong làn sương đêm, và khu vườn óng ánh như ngọc. Điệp từ “nắng” trong câu thơ không chỉ là ánh sáng thiên nhiên, mà còn là biểu tượng cho sức sống, niềm hy vọng. Thi nhân cảm nhận sắc “xanh như ngọc” không chỉ bằng thị giác mà bằng cả tâm hồn. Cảnh sắc ấy trong lành đến lạ, như một miền ký ức ngọt ngào còn vương vấn.

Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” tạo nên nét gợi mở đầy tinh tế. Có thể đó là khuôn mặt phúc hậu của người con gái thôn Vĩ, cũng có thể là chính Hàn Mặc Tử đang hoài niệm về thời trai trẻ. Tất cả toát lên vẻ kín đáo, dịu dàng, đặc trưng của con người xứ Huế. Qua khổ thơ này, Hàn Mặc Tử khắc họa một thôn Vĩ thanh sạch, yên bình, nơi mà lòng người như được xoa dịu.

Nếu khổ đầu tràn ngập ánh sáng ban mai, khổ thứ hai lại chìm vào nỗi u buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.”

Hình ảnh gió và mây, vốn dĩ luôn song hành, nay chia lìa đôi ngả. Sự chia ly ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi lòng thi nhân, nỗi đau chia cắt với tình yêu, cuộc đời. Dòng sông trầm mặc, hoa bắp khẽ lay, tất cả như đang lặng buồn cùng tâm trạng của người thơ. Điệp từ “gió” và “mây” tạo cảm giác rạn vỡ, trong khi từ “buồn thiu” nhuốm cả câu thơ trong cảm giác cô quạnh đến não lòng.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình ảnh thuyền và trăng tràn ngập sự mộng ảo. Trăng ở đây không còn lạnh lẽo, huyền hoặc như trong “Thơ điên”, mà nhuốm màu buồn man mác. Thi nhân đặt ra câu hỏi mang đầy phấp phỏng: liệu hạnh phúc có đến kịp hay sẽ mãi muộn màng? Chữ “kịp” như nhát cắt vào nỗi lo âu của người sắp giã biệt cuộc đời. Thi nhân khao khát tình người, tình đời, nhưng sâu thẳm, người biết rằng mọi thứ đã trở nên xa vời.

Khổ cuối của bài thơ đậm chất mộng ảo, pha lẫn thực và mơ:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hình ảnh “khách đường xa” nhấn mạnh khoảng cách vô vọng giữa thi nhân và cuộc đời. Người con gái trong ký ức hiện ra với áo trắng thanh khiết, nhưng càng trắng, càng mờ nhạt, xa cách. Không gian mờ ảo “sương khói mờ nhân ảnh” làm tan biến hình bóng, khiến mọi thứ chỉ còn là kỷ niệm. Câu hỏi cuối cùng khép lại bài thơ, mang theo sự khắc khoải không lời đáp. Tình yêu ấy, tình người ấy, có đủ “đậm đà” hay chỉ là ảo vọng?

“Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bài thơ tình yêu, mà còn là khúc hoài niệm của Hàn Mặc Tử dành cho cuộc đời. Với những hình ảnh giàu sức gợi, bút pháp cách điệu hóa và sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực và mộng, bài thơ đã khắc họa thành công vẻ đẹp thanh khiết của thôn Vĩ và tâm trạng đau thương của thi nhân. Qua đó, người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu của Hàn Mặc Tử dành cho quê hương, cuộc đời, mà còn hiểu được nỗi cô đơn và khát khao được sống mãnh liệt của ông.

Như Chế Lan Viên từng nhận xét: “Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kỳ này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử.” Hồn thơ Hàn Mặc Tử mãi mãi giao hòa với những tâm hồn yêu thơ, để mỗi lần đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta lại thêm trân trọng cuộc đời, trân trọng những vẻ đẹp tinh khôi bình dị, và cảm nhận được giá trị cao quý của tình yêu, dù là trong tuyệt vọng.

>>> Xem thêm: 23+ Mẫu phân tích Sang Thu hay nhất được chọn lọc

Từ các mẫu phân tích, ta hiểu rõ hơn vẻ đẹp của bài thơ và khát vọng sống mãnh liệt của Hàn Mặc Tử. Hy vọng bạn đọc tìm thấy cảm hứng để viết văn sâu sắc hơn, thể hiện được tâm tư và sáng tạo qua từng câu chữ.

Xem thêm:
  • • Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
  • • Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2024 siêu hot: Tủ sách Thích Văn học
  • • Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học: Tài liệu
  • • Tham khảo các bài văn mẫu tại chuyên mục: Văn Mẫu
  • • Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học
Danh mục: Phân tích

No tags found for this post.