Văn Học VN
Menu
Phân tích Hai đứa trẻ của tác giả Thạch Lam siêu hay - vanhocvn.net

Phân tích Hai đứa trẻ của tác giả Thạch Lam siêu hay

25th Dec, 2024

"Hai đứa trẻ" là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Thạch Lam, thuộc dòng văn học lãng mạn Việt Nam. Bằng lối kể chuyện nhẹ nhàng, tinh tế, tác phẩm khắc họa cuộc sống nơi phố huyện nghèo và những khát vọng tốt đẹp của con người. 

Qua việc phân tích Hai đứa trẻ, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp trữ tình, sâu lắng trong từng câu chữ và ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm.

Phân tích Hai đứa trẻ siêu hay

Nhắc đến Thạch Lam, ta không thể không nhắc đến một nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Ông nổi bật với phong cách viết tinh tế, khai thác sâu sắc thế giới nội tâm của nhân vật qua những cảm xúc mong manh, mơ hồ. 

Nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn từ những chân cảm đối với con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là nhà văn luôn quý mến cuộc sống, trân trọng sự sống của mọi người xung quanh.” Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một minh chứng rõ nét nhất cho phong cách nghệ thuật và tư tưởng nhân văn ấy.

Được rút từ tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938), “Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống nơi phố huyện nghèo thông qua góc nhìn của hai chị em Liên và An. Gia đình xảy ra biến cố, hai đứa trẻ theo mẹ về quê ngoại, sống tại một phố huyện nhỏ, ngày ngày trông coi căn hàng xén nhỏ bé và chờ đợi đoàn tàu đi qua. 

Qua con mắt trong trẻo của Liên, Thạch Lam đã phác họa một bức tranh phố huyện u tối, chật hẹp, tù túng, nơi con người sống mòn trong nghèo đói và vô vọng. 

Truyện ngắn không chỉ là lời cảm thương cho những kiếp đời cơ cực mà còn thể hiện sự trân trọng những ước mơ nhỏ bé, giản dị của họ, làm nổi bật vẻ đẹp nhân văn và tinh thần lạc quan mà Thạch Lam gửi gắm qua từng trang văn.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là sự kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn, được thể hiện rõ qua hình ảnh cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn. Ngay từ đầu truyện, tác giả dẫn dắt người đọc vào một không gian chiều tàn u buồn, ảm đạm, đầy u tối. 

Thời gian trong truyện diễn ra ngắn ngủi, chỉ gói gọn từ lúc chiều xuống cho đến đêm khuya. Tuy nhiên, qua con mắt của nhà văn, bức tranh chiều tàn ấy vẫn mang vẻ đẹp thơ mộng và yên ả:

“Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.”

Dẫu vậy, vẻ đẹp ấy chỉ là lớp vỏ che đậy cho nỗi buồn sâu sắc, phản ánh sự mòn mỏi và tăm tối trong cuộc sống của con người. Đây chính là nét đặc trưng trong văn Thạch Lam: vừa hiện thực vừa giàu chất lãng mạn. Những mảng màu rực rỡ của chiều tàn không đủ để làm lu mờ bức tranh hiện thực khắc nghiệt mà ông muốn truyền tải.

Phố huyện nơi chị em Liên sống thực chất chỉ là một chợ xép nhỏ, nơi mà sự nghèo đói, tăm tối bao trùm tất cả. Chợ tan từ lâu, để lại một khung cảnh tiêu điều: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.” 

Chỉ những chi tiết nhỏ như rác rưởi sau phiên chợ cũng đủ để gợi lên sự khốn khó, cơ cực của những con người nơi đây.

Bên cạnh đó, hình ảnh những đứa trẻ nhà nghèo đang lục lọi trên đống phế phẩm phiên chợ là hiện thân rõ nét nhất của sự cùng quẫn. “Chúng cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại.” Những hành động ấy không chỉ thể hiện sự nghèo đói, mà còn gợi lên nỗi ám ảnh về sự mưu sinh vô vọng. 

Tất cả những con người ở phố huyện này, từ những người bán hàng đến những đứa trẻ nhặt rác, đều đang vật lộn để sống và hy vọng, nhưng sự cố gắng dường như đã vượt quá giới hạn, còn hy vọng thì mong manh như ánh sáng le lói cuối ngày.

“Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh hiện thực đầy xúc cảm về cuộc sống cơ cực, mà còn là tiếng nói trân trọng, cảm thương sâu sắc của Thạch Lam dành cho những kiếp người nhỏ bé, bị bủa vây trong bóng tối nhưng vẫn khao khát một ánh sáng đổi đời.

Nổi bật trên nền cảnh tàn tạ, hắt hiu của phố huyện là hình ảnh những kiếp người tàn, quẩn quanh, tù túng không lối thoát. Đó là vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn bầu thê lương, trên manh chiếu rách, thằng con bò ra đất ngoài manh chiếu, nghịch nhặt rác bẩn. 

Đó là mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối đến lại dọn hàng nước ven đường “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Đó là bác phở Siêu với gánh hàng vốn là thứ quà xa xỉ đối với người dân phố huyện, là bà cụ Thi điên nghiện rượu, là những đứa trẻ con nhà nghèo và chính cả hai chị em Liên… 

Thân phận tàn tạ đang héo mòn, con người hoà lẫn cùng bóng tối như những cái bóng vật vờ lay lắt, mong manh đang trôi theo thời gian. Cuộc sống ấy cứ đều đều, đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, nhàm chán đối với người dân phố huyện. Tất cả họ đang mong đợi một cái gì đó tươi mát thổi vào cuộc đời họ. 

Nét vẽ âm thanh, ánh sáng, con người của bức tranh phố huyện tưởng chừng rời rạc, nhưng nó hoà quyện cộng hưởng trong hệ thống u buồn, trầm mặc, xót xa. Điểm thêm vào cuộc sống ấy là ngọn đèn dầu cùng bóng tối bao phủ, càng ngợi sự nghèo khổ lay lắt đến tội nghiệp.

Cảnh ngày tàn được miêu tả ảm đạm, tù túng với những kiếp người tàn. Và, sự tẻ nhạt, tăm tối như được nâng lên gấp nhiều lần khi Thạch Lam miêu tả cảnh phố huyện lúc đêm khuya. Trong tác phẩm có đến hơn hai mươi lần từ “tối” được lặp lại. 

“Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”, “đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. 

Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt. Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. 

Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó cũng là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

Phân tích bài thơ Chân Quê của tác giả Nguyễn Bính siêu hay

Phân tích nhân vật Ngô Tử Văn siêu hay| Ngữ văn lớp 10

Không chỉ là không gian, cảnh vật, cuộc sống của những cư dân nơi phố huyện cũng phủ đầy đêm tối. Họ hoạt động, mưu sinh trong bóng tối mịt mù. Tối đến, mẹ con chị Tí dọn hàng nước. Đêm về, bác phở Siêu xuất hiện. 

Trong bóng tối, gia đình bác hát Xẩm kiếm ăn. Khi bóng tối tràn ngập là lúc bà cụ Thi điên đến mua rượu uống rồi sau đó “đi lần vào đêm tối”. Còn Liên và An đêm nào cũng ngồi lặng ngắm phố huyện và chờ đoàn tàu. 

Cuộc sống lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ với những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ cùng mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”. Trong bóng tối đen đặc ấy, hình ảnh ngọn đèn dầu được nhắc hơn mười lần như một chút hi vọng mong manh Thạch Lam muốn gieo vào lòng con người. Đó là “ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. 

Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng. Ngọn đèn dầu, mặt khác cũng là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. 

Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hột sáng của ngọn đèn dầu hắt ra chỉ như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen càng bi đát, tối tăm.

Trong toàn bộ tác phẩm, nhân vật Liên là điểm nhấn mà Thạch Lam tập trung khắc họa nhiều nhất. Tuy chỉ là một cô bé mới lớn, nhưng Liên mang trong mình những suy nghĩ và cảm xúc rất chân thực, đẹp đẽ và đáng quý. 

Đứng trước khung cảnh tối tăm và tù túng của phố huyện, Liên không tránh khỏi cảm giác buồn bã, trầm tư. Cô nhớ về những ngày tháng tươi đẹp ở Hà Nội, nơi có “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Khi ấy, mẹ cô từng “nhiều tiền, đưa các con đi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.” 

Đó là một cuộc sống hoàn toàn khác biệt với hiện tại, nơi phố huyện tối tăm và ngột ngạt. Dẫu vậy, Liên không ghét bỏ hay phủ nhận thực tại của mình. Ngược lại, cô cảm nhận cuộc sống ấy với sự thân thuộc và gần gũi. 

Cô và em trai An lặng lẽ ngắm những vì sao, quan sát cuộc sống nơi phố huyện và xót xa chia sẻ với những mảnh đời nhỏ bé đang sống lay lắt trong bóng tối của nghèo đói và tù túng.

Những ngọn đèn le lói nơi phố huyện không đủ để xua tan đi cái tăm tối bao trùm. Tuy nhiên, Thạch Lam không để bóng tối hoàn toàn lấn át hy vọng. Ông gửi gắm vào tác phẩm niềm vui và hy vọng lớn hơn qua hình ảnh chuyến tàu đêm rực rỡ ánh đèn. 

Chuyến tàu đêm là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên và những người dân nơi phố huyện. Nó mang đến một thế giới khác hẳn: ánh sáng rực rỡ, âm thanh náo nhiệt, tiếng ồn ào của những hành khách, hoàn toàn đối lập với nhịp sống buồn tẻ của phố huyện. 

Chuyến tàu từ Hà Nội mang theo cả ký ức tuổi thơ của chị em Liên, đánh thức những hồi ức vui tươi, đủ đầy mà hai cô bé từng được trải qua. Dẫu ánh sáng ấy chỉ lóe lên trong chốc lát, nó vẫn đủ để xuyên thủng màn đêm nặng nề, xua tan phần nào ánh sáng yếu ớt, mờ nhạt của ngọn đèn dầu nơi phố huyện.

Việc chờ tàu đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của Liên và An, như một nhu cầu thiết yếu mỗi ngày. Nhưng với Liên, đó không chỉ đơn thuần là đợi khách mua hàng. 

Cô chờ tàu vì hy vọng được nhìn thấy một điều gì đó khác biệt với cuộc sống tẻ nhạt, tù túng mà mình đang trải qua. Chuyến tàu không chỉ gợi nhớ những ký ức tuổi thơ êm đềm mà còn giúp Liên nhận thức rõ hơn sự ngưng đọng và bế tắc của cuộc sống hiện tại.

Liên hiện lên là một cô bé giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Dẫu nỗi buồn và bóng tối đã phủ kín trong đôi mắt, tâm hồn cô vẫn dành chỗ cho những ước mơ, cho sự chờ đợi trong màn đêm. Liên là nhân vật duy nhất trong phố huyện có ý thức về cuộc sống và biết khao khát thay đổi. Hình ảnh cô bé kiên nhẫn chờ đợi từng chuyến tàu như biểu tượng cho niềm hy vọng và sự đấu tranh ngầm của con người trước bóng tối của số phận.

Trong tác phẩm, hình ảnh chuyến tàu đêm mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Nó đại diện cho một thế giới tràn đầy sự sống động, giàu có và rực rỡ ánh sáng, trái ngược hoàn toàn với cuộc sống nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của những con người nơi phố huyện. 

Qua tâm trạng của Liên, Thạch Lam muốn đánh thức những tâm hồn đang chìm trong buồn chán, quẩn quanh, lam lũ, đồng thời khơi dậy khát vọng hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đây chính là giá trị nhân văn cao cả mà truyện ngắn này truyền tải. 

Bên cạnh đó, chuyến tàu còn là biểu tượng của một cuộc sống sôi động, hiện đại và vui tươi. Dù chỉ thoáng qua, nó cũng mang đến cho phố huyện sự giải thoát tạm thời khỏi không khí tù đọng, bế tắc.

Sự thành công của tác phẩm không chỉ nằm ở giá trị nội dung sâu sắc mà còn nhờ vào tài năng nghệ thuật của Thạch Lam. Cốt truyện giản dị, chủ yếu là dòng chảy tâm trạng và những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. 

Đọc Hai đứa trẻ, người đọc dễ dàng nhận thấy câu chuyện không có nhiều tình tiết phức tạp, chỉ là những mảnh ghép nhỏ của cảm xúc, sự việc đời thường được kết nối qua suy nghĩ và cảm nhận của Liên. Bút pháp tương phản cũng là một điểm sáng trong nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam. 

Sự đối lập giữa bóng tối đặc quánh và ánh sáng leo lét của đèn dầu, hay giữa cuộc sống tù túng, ảm đạm của phố huyện với sự sôi động, rực rỡ của chuyến tàu đêm đã tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Qua đó, Thạch Lam nhấn mạnh sự bế tắc, tù túng trong cuộc sống của người dân phố huyện, đồng thời khơi gợi khát vọng thoát khỏi bóng tối đó.

Ngoài ra, khả năng miêu tả sinh động của Thạch Lam còn được thể hiện qua những biến đổi tinh tế trong cảnh vật và tâm trạng con người, đặc biệt là nhân vật Liên. 

Tâm trạng buồn bã, cảm thông, nuối tiếc của cô bé được khắc họa một cách tinh tế, phù hợp với mạch truyện. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu tính tượng trưng cùng giọng văn thủ thỉ, trữ tình cũng góp phần làm nên chất văn độc đáo và hấp dẫn của Thạch Lam.

Tóm lại, Hai đứa trẻ là tiếng nói xót thương cho những kiếp người nghèo khổ, sống quẩn quanh trong bóng tối, không ánh sáng, không tương lai ở phố huyện trước Cách mạng tháng Tám. 

Qua những nhân vật đó, Thạch Lam gợi lên sự đồng cảm, trân trọng những ước mơ giản dị nhưng mãnh liệt vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Tác phẩm không chỉ có giá trị hiện thực mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc.


Xem thêm:
  • • Lớp văn cô Ngọc Anh trực tiếp giảng dạy tại Hà Nội: Tìm hiểu thêm
  • • Tham khảo sách Chuyên đề Lí luận văn học phiên bản 2024 siêu hot: Tủ sách Thích Văn học
  • • Tham khảo bộ tài liệu độc quyền của Thích Văn học: Tài liệu
  • • Tham khảo các bài văn mẫu tại chuyên mục: Văn Mẫu
  • • Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học
Danh mục: Phân tích

No tags found for this post.